Xác định nồng độ PIVKA-II giúp phát hiện tình trạng thiếu hụt Vitamin K trước khi kết quả xét nghiệm đông máu thường quy thay đổi hoặc xảy ra xuất huyết. PIVKA-II không xuất hiện ở bình thường, nhưng ở người bị bệnh gan và gan ác tính, PIVKA-II có thể xuất hiện dù cơ thể không bị thiếu hụt vitamin K. Nồng độ PIVKA-II được xác định để hỗ trợ chẩn đoán và tiên lượng ở bệnh nhân bị HCC và theo dõi bệnh nhân HCC trong quá trình điều trị.
Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) là loại ung thư phổ biến thứ 6 trên toàn thế giới và chiếm hơn 90% ung thư gan nguyên phát. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Việt Nam có tỷ lệ mắc ung thư gan theo giới tính nam cao thứ 3 thế giới. Tại Việt Nam, ung thư gan đứng đầu trong các loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới và thứ 5 ở nữ giới với số mắc năm 2018 là 25.335 ca. Tỷ lệ mắc ở nam giới nước ta là 39/100.000 dân, trong khi nữ giới là 9,5/100.000 dân.
Ung thư biểu mô tế bào gan nếu được chẩn đoán ở giai đoạn sớm và điều trị đúng phương pháp sẽ có tiên lượng khả quan. Tỉ lệ sống 5 năm đối với bệnh nhân được điều trị là 50-70% tùy từng nghiên cứu. Chính vì vậy mà các biện pháp sàng lọc phát hiện sớm ung thư biểu mô tế bào gan hiện rất được chú trọng nghiên cứu và phát triển.
Ung thư gan đứng đầu trong các loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới
1. Các phương pháp sàng lọc sớm ung thư gan
Siêu âm: dễ thực hiện, chi phí thấp, được sử dụng phổ biến, phần lớn các HCC phát triển từ xơ gan nên việc theo dõi siêu âm ở bệnh nhân mắc bệnh gan mạn tính tiến triển cần được thực hiện thường xuyên. Tuy nhiên, do hiệu quả của siêu âm phụ thuộc vào người thực hiện, hiệu quả giảm đi ở những bệnh nhân thừa cân và béo phì và không đạt mức tối ưu trong phát hiện sớm HCC, nên cần thêm các dấu ấn sinh học khác.AFP: là một glycoprotein bình thường được sản xuất trong khi có thai trong túi noãn hoàng và trong gan của bào thai. Nếu thai phát triển bình thường, nồng độ AFP được tìm thấy trong huyết thanh của mẹ sẽ tăng lên, và chỉ một lượng không đáng kể AFP vẫn còn lại trong dòng tuần hoàn sau sinh. Nồng độ AFP huyết thanh giảm nhanh sau khi sinh và khi trưởng thành chỉ còn < 9 ng/mL. AFP cũng được coi như một chất chỉ điểm u đối với một số loại ung thư (nhất là ung thư gan nguyên phát). Nồng độ AFP thường tăng cao ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan, tuy nhiên cũng có thể tăng trong viêm gan mạn tính hoặc xơ gan, ung thư dạ dày, ung thư phổi… Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng độ nhạy chẩn đoán HCC của AFP chỉ đạt 39-45% và độ đặc hiệu là 76-94%.PIVKA-II: là dạng bất thường của des-carboxylated prothrombin (DCP) được tạo ra do sự thiếu hụt vitamin K hoặc ở bệnh nhân được điều trị bằng warfarin hay phenprocoumon. Des-carboxylated prothrombins bị khuyết chức năng do không thể gắn kết với canxi và phospholipid. Xác định nồng độ PIVKA-II giúp phát hiện tình trạng thiếu hụt Vitamin K trước khi kết quả xét nghiệm đông máu thường quy thay đổi hoặc xảy ra xuất huyết. PIVKA-II không xuất hiện ở bình thường, nhưng ở người bị bệnh gan và gan ác tính, PIVKA-II có thể xuất hiện dù cơ thể không bị thiếu hụt vitamin K. Nồng độ PIVKA-II được xác định để hỗ trợ chẩn đoán và tiên lượng ở bệnh nhân bị HCC và theo dõi bệnh nhân HCC trong quá trình điều trị.
Tiến hành các chẩn đoán hình ảnh và xét nghiệm để sàng lọc sớm ung thư gan
2. PIVKA-II được chỉ định trong trường hợp nào?
Chỉ định cho đối tượng bệnh nhân nguy cơ: Nhiễm virus viêm gan B (HBV) hoặc virus viêm gan C (HCV) mạn tính, xơ gan, nghiện rượu, béo phì, đái tháo đường, nhiễm độc alfatoxin, thiếu hụt Anpha -1-antitrypsin…Thường được sử dụng cùng với các chất đánh dấu khối u khác như alpha-fetoprotein (AFP) và/hoặc AFP-L3 để theo dõi hiệu quả điều trị và tái phát của HCC.Xét nghiệm PIVKA-II được chỉ định để hỗ trợ chẩn đoán và tiên lượng ở bệnh nhân bị HCC và theo dõi HCC trong quá trình điều trị.
3. Ý nghĩa của xét nghiệm PIVKA-II23
Nồng độ PIVKA-II bình thường là < 40 mAU/mL. Với giá trị cắt là 240 mAU/mL thì PIVKA-II có độ nhạy là 14-54% và độ đặc hiệu là 95-99% trong chẩn đoán HCC.Nhiều nghiên cứu cho thấy sự tăng PIVKA-II thường phản ánh tình trạng của bệnh, kích thước khối u, sự xâm lấn tĩnh mạch cửa. Ngoài ra sau phẫu thuật cắt bỏ khối u hoặc sau điều trị ung thư gan bằng phương pháp khác, nồng độ PIVKA-II giảm nhanh. Sự tăng PIVKA-II trở lại sau điều trị thể hiện bệnh tái phát hoặc thất bại của điều trị.PIVKA-II > 400 mAU/mL có liên quan đến việc tái phát HCC ở bệnh nhân ghép ganKết hợp PIVKA-II, AFP và AFP-L3 giúp cải thiện đáng kể khả năng phát hiện HCC với độ nhạy đến 84% và độ đặc hiệu 94%
Kết quả xét nghiệm PIVKA-II23 phản ánh tình trạng của bệnh và kích thước khối u
4. Những lưu ý khi khi đọc kết quả xét nghiệm PIVKA-II
Kết quả xét nghiệm nên được kết hợp với các dữ liệu khác như các triệu chứng lâm sàng và các xét nghiệm khác.Kháng thể dị hình trong huyết thanh người, yếu tố dạng thấp (RF) có thể phản ứng với các globulin miễn dịch trong thuốc thử, gây ảnh hưởng nhiễu đến xét nghiệm. Bệnh nhân thường tiếp xúc với động vật hay phơi nhiễm với các sản phẩm huyết thanh động vật có thể ảnh hưởng nhiễu và cho kết quả xét nghiệm có giá trị bất thường.Thuốc điều trị có chứa chất tương tự Vitamin K có thể cho kết quả âm tính giả. Giá trị PIVKA-II có thể dương tính giả khi bệnh nhân được điều trị bằng thuốc kháng sinh, thuốc đối kháng vitamin K, có tình trạng dinh dưỡng ít vitamin K, hoặc bệnh nhân bị bệnh gan do sử dụng chất cồn.
Để biết thêm thông vui lòng liên hệ với NHà thuốc Hapu qua số hotline 0923 283 003 hoặc truy cập vào website https://nhathuochapu.vn để được hỗ trợ tư vấn 24/7