Phương pháp tầm soát ung thư gan hiện nay rất phổ biến và cực kỳ quan trọng. Hầu hết các trường hợp ung thư gan khi phát hiện, bệnh đã tiến triển đến giai đoạn xấu. Do đó, việc tầm soát và tầm soát ung thư sẽ giúp người bệnh phát hiện sớm và điều trị ở giai đoạn sớm để kéo dài tuổi thọ tối đa. Hiện nay, có rất nhiều phương pháp tầm soát ung thư, hãy cùng Nhà thuốc Hapu tìm hiểu phương pháp đó là gì và các chỉ số về ung thư gan.
Những thống kê đáng báo động của ung thư gan trên thế giới
Ung thư gan là loại ung thư phổ biến thứ 5 ở nam giới và thứ 7 ở phụ nữ, với hơn nửa triệu trường hợp mới được chẩn đoán mỗi năm trên toàn thế giới, khiến nó trở thành nguyên nhân hàng đầu thứ ba. Gây tử vong do ung thư trên toàn thế giới sau ung thư phổi và dạ dày. Trong năm 2010, ước tính có khoảng 754.000 người chết vì ung thư gan. Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) là dạng ung thư gan phổ biến nhất – chiếm 80% ung thư gan. Hơn 80% các trường hợp ung thư gan được tìm thấy ở các nước ở châu Á và châu Phi cận Sahara.
Nguyên nhân chính gây ung thư gan là viêm gan mãn tính do HCV và HBV dẫn đến xơ gan. Trong thực hành lâm sàng, người ta thấy rằng 70-80% ung thư gan phát triển trên xơ gan. Nguyên nhân và dịch tễ học của ung thư gan có liên quan chặt chẽ đến nguyên nhân và dịch tễ học của xơ gan. Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác như: nghiện rượu, aflatoxin flatoxin được bài tiết từ nấm Aspergillus flavus thường được tìm thấy trong ngũ cốc.
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực lưu hành có tỷ lệ mắc bệnh viêm gan cao. Theo một nghiên cứu điều tra dịch tễ học ở Hà Nội và Bắc Giang, tỷ lệ nhiễm HBV và HCV ở Hà Nội và Bắc Giang lần lượt là 8,0% và 2,7%. Theo dữ liệu được ghi nhận về dân số ung thư năm 2004, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong số 10 loại ung thư phổ biến ở TP HCM, ung thư gan đứng đầu ở nam giới (tần suất 38,2 ca/100.000 dân/năm) và thứ 6 ở phụ nữ (tần suất 8,3 ca/100.000 dân). dân số mỗi năm). Tại Hà Nội, ung thư gan đứng thứ 3 ở nam giới và thứ 7 ở nữ giới. Trong những năm gần đây, trung bình mỗi năm Việt Nam có hơn 10.000 ca ung thư gan mới và trở thành quốc gia có tỷ lệ ung thư gan cao nhất thế giới.
Tỷ lệ sống sót chung của ung thư gan trong vòng 5 năm sau khi chẩn đoán là khoảng 9%. Khi ung thư gan được phát hiện ở giai đoạn đầu, khoảng 19% bệnh nhân có tỷ lệ sống sót từ 5 năm trở lên. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 30% bệnh nhân phát hiện ra bệnh ở giai đoạn sớm.
Khoảng 26% các trường hợp được chẩn đoán khi ung thư ở giai đoạn thứ hai. Ở giai đoạn này, ung thư đã bắt đầu lan rộng, nhưng chỉ xuất hiện trong các hạch bạch huyết.
Tiên lượng sống sót của ung thư gan giai đoạn 2 là khoảng 6,5% bệnh nhân có tỷ lệ sống sót sau 5 năm. Gần 22% các trường hợp ung thư gan được chẩn đoán ở giai đoạn tiến triển. Với giai đoạn này, ung thư đã bắt đầu xâm lấn các cơ quan xa xôi.
Tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với ung thư gan di căn là khoảng 3,5%. Nếu bệnh được phát hiện ở giai đoạn đầu, phẫu thuật triệt để hoặc ghép gan là phương pháp điều trị có kết quả rất tốt, với tỷ lệ sống sót lên đến 80%. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, ung thư gan thường được chẩn đoán ở giai đoạn muộn, vì vậy ghép gan không đạt được kết quả tốt. Vào thời điểm đó, ung thư đã xuất hiện ở các cơ quan khác và nó có khả năng lan sang gan mới được cấy ghép, vì vậy tỷ lệ sống sót sau 5 năm là dưới 10%.
Phương pháp tầm soát ung thư gan
Hiện nay, các phương pháp tầm soát ung thư gan chủ yếu là phương pháp chẩn đoán hình ảnh như siêu âm: Đây là phương pháp đơn giản, chi phí thấp và vô hại có thể phát hiện khối u >1cm. Siêu âm đóng vai trò rất quan trọng trong việc sàng lọc và phát hiện sớm ung thư gan, ngoài ra tầm soát ung thư còn giúp phát hiện các bệnh đi kèm như xơ gan, tăng huyết áp cổng thông tin. Các phương pháp khác như: Chụp cắt lớp vi tính (CT-Scan) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) sẽ giúp nhìn rõ khối u rõ ràng hơn. Bệnh nhân cần thực hiện sinh thiết gan để xác nhận chẩn đoán ung thư gan.
Xét nghiệm Alpha-Fetoprotein (AFP)
Xét nghiệm AFP hiện được sử dụng rộng rãi để phát hiện các mầm bệnh gây ung thư gan. Chất này được sản xuất trong gan của thai nhi và các bộ phận khác khi phôi phát triển. Chỉ số nồng độ AFP trung bình của người lớn dưới 25UI/ml, nếu chỉ số tăng trên 25UI/ml, có nguy cơ ung thư gan. Theo dữ liệu của các chuyên gia, hơn 50% các trường hợp ung thư gan có chỉ số AFP > 300UI / ml.
AFP là một dấu hiệu HCC (tế bào ung thư) rất nhạy cảm và chính xác với tỷ lệ 80 – 90%. Bởi vì nó được tái tạo trực tiếp trong gan, nó có một mối tương quan khá chặt chẽ có thể dễ dàng phát hiện khối u gây ung thư gan. Nó cũng quan trọng trong chẩn đoán bệnh và theo dõi sự tiến triển của bệnh.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chỉ số tăng vượt quá bình thường nhưng không phải do ung thư gan, mà bệnh nhân chỉ mắc các bệnh về gan như viêm gan, xơ gan,… Trên thực tế, cũng có những trường hợp nồng độ AFP cao hơn tới 20 – 30% ở những người bị ung thư gan nhưng không mắc bệnh.
Đối với những người mắc các bệnh liên quan đến gan nghi ngờ dễ bị ung thư gan. Nên đi xét nghiệm ung thư gan AFP, kết hợp với siêu âm định kỳ 6 tháng một lần. Để đánh giá nguy cơ ung thư gan, sau đó thực hiện các biện pháp kiểm soát kịp thời.
Ngoài dấu hiệu ung thư dựa trên AFP, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra hai dấu hiệu khác, AFP L3 và DCP. Tính cả AFP, đây được xem là bộ 3 xét nghiệm ung thư gan được nhiều người quan tâm và lựa chọn hiện nay.
Xét nghiệm AFP-L3
AFP có 3 dạng là AFP-L1, AFP-L2 và AFP-L3, trong đó AFP-L1 được lấy từ các tế bào gan lành tính, chẳng hạn như những người mắc các bệnh về gan như xơ gan, viêm gan B,… và không thể liên kết với LCA (Lens culinaris agglutinin). AFP-L2 chủ yếu được sản xuất bởi các khối u túi lòng đỏ và có thể gắn vào LCA với áp lực vừa phải.
AFP-L3 được lấy từ các tế bào gan ác tính, tức là từ những người bị ung thư gan, AFP-L3 có thể được gắn vào LCA tùy thuộc vào áp lực khác nhau. Giá trị của xét nghiệm ung thư gan với AFP-L3 được ước tính có thể phát hiện các tế bào ung thư lên đến 90%. AFP-L3 được báo cáo chiếm 10% tổng tỷ lệ AFP, nếu vượt quá 10% đó, có nguy cơ ung thư gan trong vòng 21 tháng.
Xét nghiệm DCP
Phương pháp xét nghiệm Des-Gamma-Carboxy Prothrombin (DCP), còn được gọi là PIVKA-II, giúp chẩn đoán các dấu hiệu bất thường của các triệu chứng dẫn đến ung thư. Cũng như phát hiện sớm các khối u chưa phát triển quá lớn, được tạo ra bởi yếu tố đông máu, một sự bất thường của prothrombin do thiếu vitamin K trong gan.
DCP cũng được sản xuất từ các khối u trong gan và mức độ thường tăng lên trong ung thư gan nguyên phát. Do đó, nó có ý nghĩa như một dấu hiệu khối u trong sàng lọc ung thư gan. Xét nghiệm DCP có tỷ lệ đặc hiệu lên tới 85% trong chẩn đoán và phát hiện các tế bào ung thư gan nguyên phát.
Theo các chuyên gia, sự gia tăng chỉ số nồng độ DCP phản ánh rõ ràng tình trạng, cũng như kích thước tăng trưởng của khối u và sự xâm lấn của tĩnh mạch cổng. Do đó, phẫu thuật cắt bỏ khối u và sau khi điều trị sẽ giúp giảm nồng độ DCP nhanh chóng. Tuy nhiên, nếu phẫu thuật thất bại hoặc bệnh tái phát, mức độ DCP sẽ lại tăng bất thường.
Phương pháp chẩn đoán hình ảnh để sàng lọc ung thư
Khi tầm soát ung thư sẽ phải kết hợp các phương pháp với nhau để có được kết quả chính xác nhất.
Phân tích hình ảnh
Siêu âm: là kỹ thuật đầu tiên trong chẩn đoán ung thư gan, được áp dụng rộng rãi vì chi phí thấp, thực hiện đơn giản, không có tác dụng phụ và độ chính xác cao của tỷ lệ chẩn đoán (có thể phát hiện khối u gan có kích thước trên 1cm). Siêu âm cho thấy vị trí và kích thước của khối u. Ngoài ra, phương pháp chẩn đoán này còn giúp phát hiện các bệnh đi kèm như xơ gan, tăng huyết áp cổng thông tin. Đồng thời, siêu âm cũng giúp hướng dẫn các biện pháp điều trị ung thư gan như cắt gan, tiêu diệt khối u qua da, v.v. Tuy nhiên, siêu âm không tiết lộ bản chất của khối u.
Chụp cắt lớp vi tính (CT scanner): đặc biệt là chụp cắt lớp vi tính động học gan (gan đa giai đoạn) có giá trị chẩn đoán cao, độ nhạy lên đến 94% đối với khối u >1cm.
Chụp động mạch gan chọn lọc: cho phép bác sĩ nhìn thấy các động mạch trong gan được mở rộng bởi khối u và hình ảnh cụ thể của ung thư gan. Hiện nay, sử dụng chụp động mạch kỹ thuật số để xóa nền giúp các bác sĩ quan sát chính xác tình trạng khối u trong gan. Phương pháp này có độ chính xác lên đến 90% đối với các khối u dưới 3cm.
Chụp cộng hưởng từ (MRI) của gan: có độ chính xác chẩn đoán cao (tỷ lệ chính xác chẩn đoán lên đến 97,5% với khối u đường kính trên 2cm) và giúp phát hiện các tổn thương tĩnh mạch xâm lấn trong gan.
Sinh thiết gan: để kiểm tra mô bệnh học, đặc biệt là trong trường hợp nghi ngờ ung thư với các tổn thương khác. Sinh thiết gan dưới hướng dẫn siêu âm thuận tiện, ít biến chứng và có tỷ lệ chẩn đoán chính xác cao. Bác sĩ có thể sinh thiết gan của bệnh nhân thông qua nội soi hoặc dưới sự hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính. Tỷ lệ chính xác của phương pháp này là hơn 90%.
Các phương pháp chẩn đoán khác: X-quang ngực (phát hiện di căn phổi), tĩnh mạch cửa, nội soi,…
Ung thư gan tiến triển âm thầm, vì vậy hầu hết bệnh nhân thường được phát hiện muộn, tỷ lệ sống sót không cao. Do đó, những người có yếu tố nguy cơ như viêm gan B, C, xơ gan, uống nhiều rượu và có người nhà bị ung thư gan nên được kiểm tra thường xuyên để phát hiện bệnh sớm.
Xét nghiệm ung thư gan
Xét nghiệm ung thư gan sẽ giúp bệnh nhân đưa ra chỉ số ung thư gan
Chỉ số ung thư gan trong xét nghiệm máu
Nếu có các chỉ số sau đây, bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư gan:
Giảm nhẹ các tế bào hồng cầu, giảm hemoglobin.
Công thức WBC và bạch cầu thường giảm Tỷ lệ Protein, A/G < l.
Bilirubin máu có thể tăng lên.
Transaminases được nâng lên vừa phải.
Đường huyết thấp do giảm tổng hợp và lưu trữ glycogen hoặc khối u gan ác tính có chứa chất tương tự insulin.
Arginase gan giảm < 40 đơn vị.
LDH (lactico dehydrogenase): tỷ lệ LDH5/LDH1 > l.
Chỉ số ung thư gan trong xét nghiệm miễn dịch
Xét nghiệm Alpha-Fetoprotein (AFP): AFP là một glycoprotein thường chỉ có trong suốt cuộc đời thai nhi. Ở những bệnh nhân ung thư gan nguyên phát, tỷ lệ dương tính với AFP dao động từ 60 đến 90%. Đối với ung thư gan thứ phát, xét nghiệm này là âm tính. Khi AFP định lượng trên 20 ng / ml được coi là dương tính. Nếu chỉ số AFP trên 200 ng / ml, nó có giá trị chẩn đoán dứt khoát ung thư biểu mô tế bào gan. Ngoài ra, xét nghiệm AFP cũng được sử dụng để theo dõi và đánh giá kết quả điều trị ung thư gan.
Phản ứng Mantoux: thường là âm tính do giảm khả năng miễn dịch của cơ thể. Theo bác sĩ Tôn Thế Tùng, tỷ lệ âm tính là 58,7% và tiên lượng bệnh khi âm tính sẽ nặng hơn dương tính.
Chụp động mạch gan chọn lọc: cho phép các bác sĩ chẩn đoán các động mạch trong gan bị khối u mở rộng và cho thấy hình ảnh cụ thể của ung thư gan Hiện nay, sử dụng chụp động mạch kỹ thuật số để xóa nền giúp Bác sĩ quan sát chính xác tình trạng của khối u trong gan. Phương pháp này có độ chính xác lên đến 80-90% đối với khối u dưới 3cm.
Sinh thiết gan: để kiểm tra mô bệnh học, đặc biệt là trong trường hợp nghi ngờ ung thư và áp xe gan. Sinh thiết gan dưới sự hướng dẫn của siêu âm thuận tiện, ít biến chứng và có tỷ lệ chẩn đoán chính xác cao. Bác sĩ có thể sinh thiết gan của bệnh nhân thông qua nội soi hoặc dưới sự hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính. Tỷ lệ chính xác của phương pháp này là 90%.
Bài viết trên Nhà Thuốc Hapu đã tổng hợp các thông tin về các phương pháp tầm soát ung thư gan và các chỉ số ung thư gan hiện nay. Mọi thông tin thắc mắc hãy gọi ngay đến Nhà thuốc Hapu để được tư vấn hoặc bạn cần mua thuốc online trong mùa dịch Covid
Mua thuốc trực tuyến đang trở thành xu thế do các lợi ích mà nó mang lại nhất là phù hợp với tình hình phức tạp như hiện nay vì thế hệ thống nhà thuốc HAPU chúng thôi đã xây dựng hệ thống dịch phụ để có thể hỗ trợ khách hàng mua thuốc online một cách nhân gọn, tiện lợi
Khi mua hàng tại hệ thống nhà thuốc HAPU khách hàng sẽ được:
-Khách hàng được dược sĩ đại học tư vấn tận tình mọi lúc mọi nơi trên toàn quốc
-Đặt hàng trực tuyến không cần phải đến tận cửa hàng
-Luôn có các chương trình hỗ trợ bệnh nhân mùa dịch covid
-Khách hàng được kiểm tra thông tin nguồn gốc thuốc trước khi thanh toán
các bạn liên hệ Nhà thuốc hapu để được hỗ trợ tìm kiếm thuốc cần mua băng cách liện hệ vớ chúng tôi qua:
Hotline/Zalo/Whatapps/Viber: 0923.283.003.
Facebook: https://www.facebook.com/nhathuochapu
Website: https://nhathuochapu.vn/
Tác giả: DS Phan Văn Tuấn